Lấy mất xuân và thả hạ rơi
Trả mưa, gởi gió lại cho người
Còn thu đông nữa, trời sương đẫm
Nào chỉ riêng ai, cả với tôi!
Phong Tâm
20.06.2014
Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014
Lốc
Một làn gió nhẹ sương rơi xuống
Cơn lốc ngàn khơi bỗng vọng về
Những chiếc lá nghiêng, dòng sóng gợn
Trải buồn trên khắp mặt sông quê.
Phong Tâm
03.07.2014
Cơn lốc ngàn khơi bỗng vọng về
Những chiếc lá nghiêng, dòng sóng gợn
Trải buồn trên khắp mặt sông quê.
Phong Tâm
03.07.2014
Hỏi
Vẽ trời tròn vẽ đất vuông
Vẫn chưa vẽ được con đường vào tim
Hỏi người trăng nổi hay chìm
Khi cơn sóng giận có tìm được không?
Phong Tâm
20.6.2014
Vẫn chưa vẽ được con đường vào tim
Hỏi người trăng nổi hay chìm
Khi cơn sóng giận có tìm được không?
Phong Tâm
20.6.2014
Thưa!
Mái trường đã nhuốm rêu xanh
Em thay áo trắng như anh đổi giày
Thời gian không chỉ một ngày
Kiếp người là cuộc lưu đày nhớ quên…
Phong Tâm
Em thay áo trắng như anh đổi giày
Thời gian không chỉ một ngày
Kiếp người là cuộc lưu đày nhớ quên…
Phong Tâm
Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014
TÍNH ĐỐI DỤNG (về Phong Tâm)
Về
Bến Tre, bên ngoại, trên phà, bồng bềnh
sóng nước, tôi chợt nhớ quê bên nội “Nước mênh mông Trời
mênh mông Một đảo dừa xanh ở giữa
sông Ầm ỳ phà nặng người cập bến Biết bao giờ về đến quê hương,..”, rồi gặp
ngay những cảnh quen “Những đống rơm vàng xuộm mặt sông. Những nơi trũng lội đã
lên đồng Cong cong lưng lúa soi eo nước
Chao liệng bên sông tiếng sáo diều...”, chạy quanh quanh chân những hàng
dừa xanh ngút ngát là rạch nước lợ trong leo lẻo “ Làn nước vắt trong gợn lăn
tăn Bừng lên chấm lửa ơ... hoa
Súng” đẩy đưa tôi đến gặp Trang Lão Thế
Hy người từ hơn hai mươi năm về trước đã “đi chỗ khác chơi”, và đã từ cả chục
năm trước tôi viết tăng Trang Lão bài thơ lẻ “Suốt một đời Săn tìm con chữ Hốt nhiên được khóc và... Cười”, Ông ngạc nhiên chữ “Hốt”, ưng ý chữ
“khóc”, ông gật gù mấy ai đã biết khóc,có biết khóc mới biết cười! Mấy năm gần đây có một nhà thơ dùng chữ “đi câu” để
nói về công việc của Ông đã gợi ý cho tôi viết bài TRANG LÃO ĐI CÂU, dùng qua
nghề ngư phủ, Ông đi câu để cứu vớt những nỗi đời, để chia sẻ những thân phận
lòng tong cong quắt, để cảm thông những luân lạc phù sinh:
TRANG
LÃO ĐI CÂU
1
Thả
vào bom lửa Cần câu không lưỡi Câu thời yên hàn
2
Thả
vào thời cuộc Dây câu không cần Cong queo thế sự
3
Thả
vào cuộc chơi Câu thơ mắc cỡ Văn tửng long thong
4
Thả
vào câu chữ Câu sự im lặng
Giọt
hồn buốt lắng Thân xác nổi nênh
5
Ông
già lọm khọm câu Câu nỗi đời đắng chát
Nhai
sự đời móm mém Giữa u u minh minh
6
Mắt
long lanh tinh nghịch...
Trang Lão cảm nhận ở nơi tôi một
“bạn viết đồng điệu” một “bạn đọc tri âm” nên đã lục tìm cho tôi đọc bài
thơ “Lời nói dối nhân ái”. Tôi đọc đi, đọc
lại và tự thấy “Lời nói Thật thường nghịch nhĩ, lắm khi y trang lời nói dối,
nhưng người ta vốn đa nghi, nên chẳng mấy ai thèm nghe, ở phía ngược lại Lời
nói Dối dễ lọt tai, nhiều lúc y như lời nói thật, nhưng người ta quên khuấy cái
giả ngọt giả bùi kia, thế là lọt bẫy, dỏng tai nghe lấy được!.. “Lời nói dối
nhân ái” với tôi là độc bản, bởi tôi
chưa
thấy ai nói dối theo kiểu nhân ái này. Mà muốn “nói dối nhân ái” đâu phải dễ,
phải có tầm trí tuệ thấu nhân tâm, phải có tâm “nhân ái” bao dung khắp kiếp người,
nặng nỗi thương đời, thương cảnh người chuân chuyên, luân lạc, và đặc biệt biết
dùng nhân trí “nói dối nhân ái” như một định đề toán học, để đủ sức khái quát,
để dung hợp mọi kiếp người và hóa giải mọi khổ nạn.
Một dịp khác, ở kỳ Hội văn chương
tỉnh Bến Tre, cách nay chừng mười năm, tôi gặp một người tự vẽ chân dung mình “Kiểng cội hao hao kẻ sĩ buồn”, tự khẳng
định phong cách thơ “Rễ bám sâu vần thơ cổ
luận”. Gặp “Kiểng cội” và “Cổ luận” tôi ngờ ngợ, rồi bập vào, thế là nên
chuyện, là bởi trong nghề chữ nghĩa tôi là một tay mơ, dù tuổi đã lớn,..những
mong gặp được những bậc Kiểng cội để
được chỉ dạy, được học hỏi và tôi đã hỏi ra “Kiểng cội” là nhà thơ Phong Tâm, tôi thấy nể, và để làm quen tôi đã
biếu ông tập “Góp nhặt thơ” u ơ của mình với những bài tưng tửng, như “Thẳng
như tre Tre xanh Đời xanh cong cần trúc” hoặc “Bánh Chưng
– tròn Nhân ngãi Dầy – vuông vợ đãi chồng” hay như “Thơm
ngày xưa Gạo Lức Giờ lạt muối Vừng ơi” v.v..và v.v... nhiều
nhiều bài vớ vẩn kiểu này! Chừng một năm sau, để đáp lại, qua bưu điện, ông
Phong Tâm đã cho tôi tập “Lá nắng” (nxb vntphcm, 1996) của ông.
Lá nắng, khối lượng mỏng, dung lượng
khá dày, dung chất thì nặng nhẹ cân phân giữa cổ luận và hiện đại, số lượng bài
32, trong đó có 4, 5 bài (tr.22 – 25) nghiêng theo thơ hiện đại phá cú pháp, ngắt
nhịp thơ theo hàm ý, không theo âm vận,
dùng chữ nghĩa có vẻ “nấc cục” dễ dàng, miễn là cấu trúc câu biểu đạt cái cần
biểu đạt v.v.. và v.v... và hình như tác giả cũng có ý thể nghiệm theo hơi hướng
“hậu hiện đại”,...ấy là tôi đồ chừng vậy, chứ thực ra tôi có biết hậu hiện đại là
cái gì đâu..., có chăng là cũng đã đảo qua những thuật ngữ giải trình về cách
thức tạo ra “hậu hiện đại”,.. như “giải
thiêng, giải tán phân cách giới, giải trung tâm hoặc là phi trung tâm, ..và cảm
thức thế giới là hỗn độn Chaos (một trường phái vật lý lý thuyết), phi chuẩn,
phi Tây phương, chấp nhân truyền thông, nhưng không biến truyền thống thành
gánh nặng”(theo Thơ Việt hành trình chuyển hướng say, Inrasara, nxbtn, tr.39–45
) kèm 4 phụ bản nhạc phổ thơ xen ngang giữa từng cụm thơ, có lẽ có chủ ý tạo ra
một nốt lặng bằng nhạc như
một
thủ pháp thư giãn cho người đọc?..
Phong
thái “Kiểng cội”, phong vị “Cổ luận” gợi tôi nhớ Ông tôi, một hàn Nho cổ lậu
vùng Hà nam chiêm trũng, lỡ thời, mất thế ngay từ lúc chót mang nặng nghiệp người,
có thói quen, thường thì, sau những buổi gõ đầu trẻ là tôi và mấy anh em con
cháu trong nhà, hay ngước mắt nhìn cái roi mây mềm, nhẵn treo trên đầu hồi nhà,
ngâm ngợi câu “Nam nhi tự hữu xung thiên chí Hưu hướng như lai hành xứ hành” (Quảng
Nghiêm thiền sư). Hai câu thơ này, cho đến nay, khi đã vượt ngưỡng “cổ lai hy”
tôi vẫn không hiểu nội dung nói gì, còn bố tôi thì, thi thoảng, những buổi tối
trời, dùng đũa gõ vào miệng bát giữ nhịp đàn, lẩy mấy câu hát Cô đầu ( Ả đào )
“ Hồng hồng tuyết tuyết ... mới ngày nào chửa biết cái chi chi...”. Tôi, hồi đó, còn non dại, bước vào đời trong
môi trường nhá nhem cũ – mới này, gần như cả đời học – đọc, đọc – học nhiều,giớ
thì đã sáng ra chút chút, và rồi gặp...và đọc “Lá nắng”, lâu lâu đọc lại cho ngấm,
để học, để mót chữ và lượm ý!..
Tôi chưa gặp ai, bằng thơ và qua
thơ, như Phong Tâm, thấm sự cô đơn của người sáng tạo “Tay ông cố nắn cung trầm bổng
Với một dây đàn – Ai cố nhân” (...đàn dộc huyền, tr.37), thấy “sợi thu khát nắng, trái tim nhảy cẫng, sóng
mạch róc rách Một chút thơ” sống
chết với thơ, vì gặp thơ là “Gặp nhau như
tiền định” (tr. 52), bắt chước “Chơi nhà chòi trẻ nhỏ làm thơ” (tr.45)
còn là bởi duyên nghiệp “Riêng vần thơ
đính ước...” và vì thế “Yêu nhau cho
đến chết Bởi vì em là thơ Ta không còn ta nữa Thơ nằm trong xác ve” (tr. 53). Tôi đã theo cái duyên may, tiếp
mạch Phiêu diêu cõi ta bà Hồn thơ vừa thoát xác Nhập vào cánh thi ca Bay vào cõi nhân hà
Cát bụi. Phong Tâm dấn thân vào
thơ, chuốc cái cực “Có khi đốt cả đời tro
bụi Vẫn chưa kết tủa được thành lời...”
, không từ việc bếp núc thơ “Nếm chất
thơ... –
...”( tr.50), “Một chút
thơ...nên lưỡi rách không ngờ” (... tr.41), còn làm một khó là xác định chủ
thể thơ “Nếu làm thơ – cứ phải viết về
em”, tự nguyện “Sống với thơ, trọn kiếp...”
(em ở đây, có thể, vừa là “em ấy” vừa là
nàng thơ), định nghĩa thơ “Thơ là thơ... Thơ không chảy máu tim, có nghĩa gì
câu chữ...” tới công việc làm thơ, ấy là việc gắn “thực tại” với “mộng mị” “Thực tại rỗng mòn, sao không tìm đến mộng”
để tìm ra con chữ, làm thơ. “Thực tại”
và “mộng mị” là hai điều kiện tạo môi trường thơ xuất hiện với tư chất “Thơ là rung cảm.. Thơ là cõi riêng – đỉnh
cao hồn khoáng đại” (...tr. 48), riêng ở câu thơ này tôi nghi ngại chữ đại,
có lẽ là chữ đạt – khoáng đạt chăng? Và
đi đến rốt ráo là lúc Phong Tâm nhận ra “Khi những dấu xuôi vẫn in hình ngược dấu”
(tr.51), tự biết “Ta đã đi và đã biết
quay về Chưa dừng lại bởi hồn tha
thiết sống”.
Đời
trong thơ, qua hình tượng Em bé đồng bằng
(tr.38), Phong Tâm rất tỉnh “Đừng hão huyền
hạnh phúc Bóng cuốc nện lưng
nghèo...” (...tr.42), chia sẻ những khốn khó, mạt nghèo của kiếp người “Tay không đủ rộng làm hai mái nhà” “Em run
giữa bốn vách trời bèo mây” “Khóc qua cơn đói... cồn cào – ngủ yên, “Nghe em khóc đất cũng mềm” .
Đời
thường, con người ta “khi đi (ra)” từ đất, “khi (trở) về” với đất, trực nhận
cái vừa mới non tơ, thơ thới, đã vội vàng già cỗi“Một đời, như mới ban sơ Trở về
với đất bao giờ rồi chăng?”, cũng như mọi người cùng biết khi trở về với đất
là trở về với cát bụi, chợt nhận ra “Mới thoáng đó em đã là cát bụi Mà trở thành thiên cổ lúc chưa sinh Tôi cứ mải ruổi theo nhiều ảo vọng Để bây giờ đánh mất cả hư không”,..
Giá mà đừng mộng mị, đừng bị ám ảnh,
giá mà được như “Em đang khóc, cũng như cười, như không” ... “Giá mà” bước đường
tôi đang bước tới được cái “như không”, thì tôi chẳng bao giờ còn phải để ý đến
cái “giá mà”, “giá mà” bỏ qua được giai đoạn phải trả cái giá “giá mà” thì chắc
hẳn sẽ đến tới được cái “như không”. Tác gỉa, qua thơ, dùng cấu trúc thơ “Cổ luận” để gợi sự giao cảm, tương thông giữa con người
với trời và với đất, trong khi con người thực tại luôn sống trong nghịch lý: sống –
chết, yêu – ghét, có – không, giầu có – nghèo hèn, tồn tại hay không tồn tại,..Nhưng,
nếu ở một con người nào đó có đủ trí –
tri, có đầy nhân – dũng thì sẽ biết gạt
bỏ hết, biết buông thả tất, biết thương rất mực, biết yêu thực lòng , biết “Vì
yêu” nên sống đến cạn kiệt đời cho
nõn xanh tự nhú, biết thuận theo quy luật sinh thành trong suốt hành trình sống
, biết duy trì trạng thể “bé thơ” thì thực đã!.. Bé thơ chính là môi trường nguyên thủy, ban
sơ, thơ ngây, trong sáng, tinh khôi, phổng lớn “Đứa con thơ mới chào đời Đã
thôi nôi ở bên trời xuân xưa” (tr.31).
Phải chăng, để duy trì trạng thể “đứa
con thơ” – vô lo, vô nghĩ theo cách của cảnh giới “bất khả tri”, nên tác giả
dùng “cổ luận” đã hàm chứa trong nó tính đối dụng để biểu đạt cái hư giữa cõi
thực? Tới đây, tôi không thể không chép lại bài Hư vô (tr.30) đặc tả cảnh giới
“bất khả tri” “Hồn gục xuống, kề bên than xác rữa
Trong thâm u – nghe tiếng gọi vô thường Chầm chậm với, đợi thêm vài phút nữa Đây Niết Bàn hay cánh cửa quê hương?”.
Cụm từ “cánh cửa quê hương” cho tôi cái hứng!..
Để có thể tiếp tục lạm bàn, xin ghi
nhận tương đối về nội dung thuật ngữ ĐỐI DỤNG, ở trường hợp cụ thể, thay chữ “đối
lập” đã quen dùng, là bởi mỗi đối tượng, dù là khách thể hay chủ thể, đều có
hai mặt ĐỐI LẬP hợp thành một thực thể, được “ngôn từ” diễn giải như “phải –
trái, trước – sau, cao – thấp, sang – hèn...hoặc mơ hồ như âm – dương, tĩnh – động, thực – hư, mờ ảo – hiển
hiện, huyễn mộng – hiện thực, (hiện) thực – (hư) ảo...ta – tôi (ở đây cái ta
khái quát những cái tôi đơn lập tạo ra đối dụng ta – tôi và tôi – ta ) dùng
cùng thời điểm, trong cùng ngữ cảnh, hai mặt đối lập cùng được dùng, mặt đối lập
này làm nền để mặt đối lập kia hiển lộ ra, rõ ràng lên. Cách dùng hai mặt đối lập
cùng một lúc, ở cùng một thời điểm đã làm bật lên tính KHẢ DỤNG của ngôn từ....
Thực tế đời sống thông qua ngôn từ, đã chỉ rõ rằng không được mà cũng không thể
làm được cái việc là loại bỏ một trong
hai mặt đối lập của một thực thể tồn tại, cho nên dùng thuật ngữ chữ đối dụng
thay cho chữ đối lập là vì vậy!.. Và đó chính là mục đích tới hạn của ĐỐI DỤNG!
Nhờ đối dụng tôi đã nhận ra Cổ luận
đã dùng nó để hình thành phong cách thơ.
Đọc tập Lá nắng và những bài thơ
lẻ, tôi đã nhặt ra những cặp ĐỐI DỤNG, trong thực thể một bài thơ hoặc trong chỉ
một câu thơ, như trong bài Dấu chân, thấy ngay cụm từ đối dụng như vuông– tròn, âm – dương, tĩnh – động, xuôi –
ngược, ngắn – dài , khờ dại – khôn ngoan, rồi “Nếm chất thơ và khỏa mùi ảo”, “cốt
cách – lẽ sống”, “Tìm lại chính mình – nếp
thời gian tĩnh động”, thực tại và mộng mị, hồn và xác, ấy là do tôi áp đặt
việc dùng chữ đối dụng, chứ còn tác giả có thể có chủ ý hoặc không định dùng tới
thuật ngữ đối dụng kia đâu?!. Tôi cũng theo “Dấu chân” đi Để dài đường gai góc Để ngắn ước mơ mòn Dấu chân ngược Mách xuôi miền ngược gió Thấy chênh chang Chân hút cỏ mơn xanh Dấu chân ai in giữa miền thăm thẳm Giữa trong xanh ghi lại dấu chân mình” (ở
bài Dấu chân này xuất hiện hiện tượng đối dụng ngược – xuôi, vuông – tròn, tĩnh
– động trong “nếp thời gian tĩnh – động” “... bụi cát khép hình vuông Gió xóa... biến vòng tròn).
Ở bài “Hồn xuân”, hai cụm từ “Hồn
trôi” và “Thơ dìu”, hay toàn câu “Thơ dìu
ta về bến đỗ cội nguồn”, hoặc
câu “Tôi đông thành khối nhớ em” – cái nỗi nhớ không hình không
bóng là “ hư”, “đông thành khối” là thực
, khẳng định “Tôi là chủ thể” của cái hư – nỗi nhớ và cũng Tôi là khách thể của
cái thực – “thành khối” của thơ mình... tác giả dùng khái niệm thực – hư làm nền
đối dụng. Ở bài “Xuân động” tôi thích câu “Đọc câu kinh liệm hồn thơ”
nhưng lại thấy lướng vướng một chữ
“kinh”, kinh là kinh điển, là kinh sách hay là lời kinh câu kệ? Nhưng rồi căn cứ
vào chữ “liệm” tôi nghiêng về lời kinh câu kệ! Bởi vì, trong quá trình hủy –
sinh, thì phải có việc “Liệm”cái chết xong mới tiếp tục sinh ra cái sống “Nụ mầm đã nghén mùa thương trên chồi” .
Thực xuân và rất thơ. Trong bài “Mai nở trong tim” tôi gặp việc đuổi vụ của con
chữ rất lạ “gấp tết” “gấp tuổi” “Hoa gấp tết còn em gấp tuổi” và bởi “gấp”
nên phải chớp lấy, chộp lấy, dù chỉ là một tia hy vọng rất mơ hồ “Sợi khói gợn như lời thoáng hẹn”... Tôi chưa thấy mấy ai, như Phong Tâm viết về
sinh thái một cách khái quát con người đơn lẻ đến trọn trái địa cầu “Thở cùng lá biếc – chung buồng phổi xanh”.
Cuối cùng, bài “Buộc thả” (Văn nghệ
Hàm Luông, năm thứ 51, tr.57) tập trung
đặc tả tính ĐỐI DỤNG ở ngay đề bài Buộc – thả, chính vì thế tôi liền nêu
câu hỏi cũng là câu tự nhủ “Gió cuốn mây trôi đời bất định Buông thả cho rồi...được rong chơi”. Trong
bài “Buộc thả” này, cụm từ “buộc chặt –
thả trôi” là thực, là hiển hiện, còn “hoàng hôn – bình minh” là hư, hư – ảo là
đối dụng điển hình “Buộc hoàng hôn chặt
thả bình minh trôi”, hay như hai câu “Thơ
tình đặt giữa khuôn yêu ” thì, với “khuôn yêu” khô cứng còn “thơ tình” thì
lại giẻo mềm, tiếp đến “ Cõi người phù
phiếm xa hoa Trái tim treo ngược ngã
ba đường tình” có lẽ vì “Cõi người
phù phiếm” tréo ngoe nên buộc phải treo ngược trái tim lên, với điều kiện nhìn
ngược để thẩm thấu cái sự phù phiếm
kia. Và cuối cùng “Siết quên lỏng nhớ tay mềm
Còn nghe tiếng rớt nổi chìm sau lưng” thì sự đối dụng đã đến cực chuẩn, rất hiện thực
lại rất mơ hồ trong thao tác “siết chặt”
và (lơi) “lỏng” nhưng rồi chợt nhận ra việc “siết chặt” này là không thể,
bởi vì “tay mểm” (yếu) làm sao siết chặt cho được! Đến bước cuối cùng “Còn nghe tiếng rớt nổi chìm sau lưng”,
khi đã muốn rứt khoát buông lơi, muốn thả trôi tất cả, nhưng ở ngay sau lưng là
sự níu kéo vào cuộc luân hồi khi nghe “tiếng rớt” “nổi chìm” của cuộc hằng sinh
luân chuyển! Tính ĐỐI DỤNG” đã được dùng
làm bật ra, nổi lên những hình tượng thi ca được nhân hóa và điển hình hóa. Âu
đó cũng là một hiện tượng đối dụng trong thơ cần được ghi nhận, thế thôi!
Hiện tại, hiện đại, thế giới phẳng, màn
hình cong đã có thể soi rọi đến từng sợi lông, ngọn tóc chẻ làm tư, thì theo “Cổ
luận” mãi cũng chán, để làm mới tác giả rẽ bước vào hiện đại, ngả qua “hậu hiện
đại” để thể nghiệm nên đã giới thiệu 4, 5 bài, bắt đầu từ bài “Bối rối một tu từ”
(tr.22)
Bài
“Bối rối một tu từ”(tr.22), là thể nghiệm đầu tiên, chuyển từ “Cổ luận” quen
món “đối dụng” ngả sang “hiện đại” với món tu từ “mãi có một tu từ ...Ăn” thì
việc gặp bối rối là không lạ. Phá lối mòn “đối dụng”, làm mới “cổ luận” đã nhuyễn bằng cách xắp xếp
chữ nghĩa lộn xộn, phá cân xứng, miễn cú pháp, dùng “...cà nhắc một chân Và tập trung vào một chân Chân lý Tự nhiên
Siêu đẳng”, lấy đó làm căn cứ để xiển diễn “mãi có một tu từ ĂN”,
nhưng, có vẻ còn nuối đối dụng nên vẫn dùng trau chuốt – thô phàm, cổ điện – hiện
đại, tu từ – phổ dụng, ngắn – dài “Biết đâu những ngày dài Chỉ động vật ngày một ngắn” để kiến giải mỗi một việc ĂN “Người ta sẽ quên trau chuốt mãi có một tu từ...
ĂN”. Thực tế việc ĂN ở đời có bao nhiêu cách, kể cả cách Ngồi – bó – gối để
cố mà ăn, tìm cái ăn để sống “Không phải vô duyên cớ mà được sống”. Từ
việc ĂN mà “Người và vật bỗng thân”... vì
người và vật có chung phần “con”, nghiệm ra việc ĂN cũng là một phần của
thực thể sống cùng “một chân – Chân lý”,
rồi việc “ Ăn trông nồi ngồi trông hướng” theo kinh nghiệm sống trao truyền, có
góp gì vào “một chân – Chân lý”?
Bài “Vật thể” (tr. 24), là trải
nghiệm “mở trái tim thành sa mạc, đôi mắt mở to ta thành đại dương, đứng trên
chóp gươm, hồn treo ngược, Cứ tưởng hồn ta phiêu trong cõi chết Nào ngờ sống như mơ”, tự nhận thức
“Mơ và thực khoảnh khắc hư vô”. Thế là
rõ, những tái tim – sa mạc, mắt mở – đại dượng, mơ và thực tất cả đều hình như
“phi” vật thể, “phi trung tâm”... và phi thực “Ứa máu ra thơ”
Bài “Trễ nải” lại là một trạng thể
thực – hư, quên – nhớ, “Mùi chanh – gội
tóc – long mềm” luân chuyển “Nợ xuân chưa hứa trả Còn nợ nào Trễ nải
Lại vay thêm”. Cái “Trễ nải” có cái lý đến phi lý : “nợ chưa hứa trả”,
đã nợ, lại còn vay nợ thêm, nợ chồng nợ chất, cái nợ cứ tiến về phía trước,
không thèm lùi mà cũng không có đường lùi, vì có lẽ “lùi” là về “trung tâm” “tiến”
là đến “phi trung tâm” theo cách “hậu hiện đại”?
Bài “Chưa hết dại khờ” (tr. 26) chỉ
với một câu “Ly thân quá khứ để mua thiền” thì có lẽ đó chính là mục
đích đích thực của cuộc thể nghiệm “Dẫu
làm chim gõ chẳng linh thiêng...Trước bến sông
duyên nặng nghiệp trần... Ta khờ ngả ngớn uống đôi chân Hình như thực ảo xa gần bên anh”. Chỉ một
chữ “sông duyên” với việc “mua thiền” đủ để khẳng định tác giả
đã nghiệm ra và hướng tới cảnh giới “thiền”, đi đúng hướng “phi trung tâm” của
hậu hiện đại, là bởi “còn duyên kẻ đón người đưa”, còn “duyên” thì còn “sinh”,
còn “sinh” thì còn “nợ” “Nợ ....chưa hứa trả”, mà “chưa hứa trả” có nghĩa là
buông, buông luôn tất cả, có phải vậy chẳng”?
Song,
ở một phía khác, hình như cái “Bối rối một tu từ” theo kiểu hậu hiện đại này,
có cái gì đó gường gượng, như việc đi cà nhắc một chân, rồi hai chân tới ba
chân “Cũng không tìm được miếng ăn”, đành “ngồi – bó – gối...” rồi như “Qua động
đất – môi sinh – nhận thức”, rồi bằng cách gắn kết các cụm từ hiện đại, nhằm
nâng Ý thơ “một chân – Chân lý” “Tự
nhiên” “Siêu đẳng” lên tầm triết lý, nhưng với riêng tôi, đã từ lâu nghe ở đâu
đó, rằng “đọc thơ không phải để hiểu
thơ, mà để cảm thơ, và thơ chỉ để cảm
thôi, tôi không tin điều diễn giải này, nhưng trước “bối rối một tu từ” thì, quả
thực tôi không hiểu, không cảm được, có lẽ vì thiểu trí năng, thiếu lắng cảm
chăng?
Bài thơ Xót xa (tr. 59) ở cuối tập,
trong khi đang ngon trớn mơ hồ Kiểng cội “nhuốm lượt là” thì vấp phải cảnh cải
cách hiện đại “hờn căm” “Tóc em đã nhuốm
lượt là tháng năm Như lòng đất mẹ hờn căm” “Hờn căm” làm
mất trớn, tiếc quá! Xót thất! Giá mà, lại
giá mà, cứ tiếp cái mạch “Làm sao gọi gió
cùng nằm Để nghe thu rụng âm thầm rồi
im... ... ... Với hồn ngắt một chùm hoa Hái sao bên dải Ngân Hà lại đi”. Lại
đi, phải thế chứ, lại đi, và phải im để nghe, để tiếp tục sống phải đi thôi mới
đúng là đời thực!
Nhân đây, thú thật rằng, trong quá
trình học đọc thơ hoặc đọc văn, tôi có một thói quen không biết là hay hay dở,
chuyên đi “mót chữ”, “lượm ý” của người
khác, rồi biến nó thành của riêng mình, tôi cho rằng đó một việc làm rất hỗn,
nhưng biết làm sao, tỉ như mót được chữ “Thơ dìu...” (tr.7) tôi phóng ý “Về cội nguồn “thơ dìu” ta tìm bến Mới nửa bước chân đã thấy chông chênh Đường trăm ngả biết hướng nào chốn
cũ Tìm đến muôn nơi lúng túng đi về Thơ liệu có dìu ta như đã...” , lượm ý “thời gian không lời... (tr.9) cái sự “không
lờ” đã mách bảo tôi liền tiếp mạch “Dài
hơn nỗi nhớ Ngắn một phương vui Buồn đu nhịp võng Chông chênh không lời Gió chướng chuyển hướng Người cũng thay mùa Cuộn hương trông khói Thương đẩu đâu... người”.
Cũng có khi gặp may, tôi vớt được cả một câu, như “Ai đâu người nghe
được tiếng chim”, đọc xong, tôi chợt nhớ Trang Lão có một đoạn văn
“... đã hướng sự chú ý của bạn đọc vào cái nghịch lý dễ thương giữa nghề nghiệp
rùm beng, chát chúa của ông thợ hàn đồ nhôm, suốt ngày gõ búa lổn cổn lên nồi,
soong, thau, chậu giữa chợ búa ồn ào với cái công trình khổ luyện lặng thầm mà
ông truyền dạy cho ông nhà văn cái bí quyết khổ luyện để ông nhà văn này tìm được
sự nghỉ ngơi thư giãn cho tâm não đó là chỉ lắng nghe phần diễn cảm âm thanh của
giọng nói thôi, chứ đừng thèm nghe phần diễn nghĩa của ngôn từ phát ra từ miệng
con người. Ông thợ hàn đảm bảo với ông nhà văn rằng một ngày nào đó ông nhà văn
sẽ nghe hai con người thô lỗ chửi bới nhau y chang như nghe hai con chim song
hót.” Một người như Trang Lão “Văn – Thơ
–Triết – Nhân – Luận” sẵn có cái tâm rỗng rang, đầy thương cảm để dung hợp mọi cảnh người,
có trí uyên thâm của người hiền, tâm hồn thường vắng lặng để nghe, biết nghe
các loại âm thanh của cuộc sống thường hằng đang vật lộn, đang đảo điên, đang
cuồng loạn, đang mê hoảng trong mọi ngóc
ngách của cuộc người, nâng “biết nghe” lên tầm
“biết lắng nghe” để biến những
thanh âm nghịch nhĩ thành những cung bậc nhã nhạc mênh mang, vang vang, trong
suốt ở tầng thượng thanh cao mờ, xa vắng ...sâu lắng tình người!.. Và tôi, một
lần nữa, khẳng định lại rằng phải là người có cái “căn (tu) thiền” như Trang
Lão mới có điều kiện để biết nghe và biết “lắng nghe phần diễn cảm âm thanh của
giọng nói thôi, chứ đừng thèm nghe phần diễn nghĩa của ngôn từ phát ra từ miệng
con người, thì một ngày nào đó...nghe hai con người thô lỗ chửi bới nhau y
chang như nghe hai con chim song hót”. Nghe được hai con chim song hót đúng là
hợp với cảnh người tu
tâm, dưỡng tính vừa nhàn tản, vừa thanh cao, vừa u nhã, vừa khoáng đạt, tâm hồn
lâng lâng thanh thản, thú vị biết bao nhiêu, thưa Trang Lão!
Tôi, hậu sinh, cái nghiệp phù sinh của
mình cứ hay bị vướng vất vào cái ngày xưa, nên khi gặp “Cổ luận” là nhớ
tới ngày xưa Ôi ngày xưa
ngày xưa Cái ngày xưa rơm rạ Cái ngày xưa Lục Bát
Cái ngày xưa Nho học Có bao
giờ hôm nay Cái ngày xưa Chấn
Thanh Tiếng sấm Vọng về đâu nỗi niềm Cõi không “sư tử hống” Vòm trời nay sấm kêu Lục bục Có lỗi với ngày xưa Vì tôi chưa biết sống Thôi! Đừng thèm ngoái lại Để thong dong tháng ngày “Bất khả tri dĩ đạo?” Đạo là đạo là đạo Không không!?!
Việc lạm bình và bình lạm như trên
là do tôi cố ý tự tạo điều kiện dao du để học hỏi với mọi lớp người và để suy
ngẫm một cách dùng từ được duy danh định nghĩa là “Tính ĐỐI DỤNG”, kể cũng liều,
hẳn nhiên nhiều sai sót! Mong nhận được sự chỉ dạy từ bạn đọc, từ các bậc “Kiểng
cội” cao minh, ưu đàm “Cổ luận”. Trân trọng!
Ghi
chú: 1/
những chữ trong ngoặc kép, “in
nghiêng” là của Phong Tâm; 2/ chữ
“Chấn thanh” tôi phiên thành “Tiếng sâm”, là tên một trường học ở Sai gòn hồi
1935 – 1938, nơi cụ Cao Xuân Huy nổi lên “nhà Đạo học”, cùng thời với trường “Dục
thanh” ở ngoài Phan thiết.
Tp
HCM (SG) 01.09. 14 (tháng tám Giáp Ngọ... một ngày sinh,.. một kỵ nhật...)
ĐINH
TRẦN TOÁN
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)